Những ngày tháng Tư năm đó, không biết sao mà trời bỗng đổ mưa thật sớm và lớn
hơn bao giờ hết. Mưa làm ngập những chiếc hố tránh đạn và giao thông hào của
những người lính trận, tại các chiến trường máu lệ Phước Long, Phan Thiết, Long
Khánh, Hậu Nghĩa, Long An, Phước Tuy, Biên Hòa và Sàigòn.
Trong cơn mưa nước mắt năm ấy, có máu, thây người và xác của những cánh hoa học
trò, làm nhuộm hồng áo người lính và đồng bào chiến nạn, chạy theo cơn mưa, mịt
mù đạn pháo.
“Bồ Đào mỹ tửu, dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà, mã thượng thôi
Tuý ngọa sa trường, quân mạc vấn?
Cổ lai chinh chiến, kỹ nhân hồi”
Bốn câu thơ cổ trong bài “Lương Châu Từ” của Vương Hàn (687-726) đã nói lên thân
phận của người lính chiến, sống và chết không có biên giới, nên mấy ai dám nghỉ
tới chuyện trở về? Và giọt mưa nào đây vừa lăn trên má, đã khiến cho người lính
già bồi hồi nhớ lại, một thời chinh chiến cũ, những căn hầm tránh pháo ngập mưa,
những nấm đất đào đấp vội vàng, để vùi bạn vữa ngã gục và những thương binh rên
xiết, đang chờ cấp cứu.
Tất cả đã thành cổ tích. Giờ chỉ còn biết ngồi đây mà nhớ lại những ngày xa cũ.
Chúng ta, tất cả đều là những người VN tội nghiệp, trót đầu thai lộn trong thế
kỷ này, nên đã cùng nối vai lần lượt bước lên những giàn lửa đỏ. Cuối cùng, kẻ
chết thì bị dầy mồ, tan xác, còn người sống, nếu không sống kiếp mây chiều lang
thang, thì cũng lết lê phận bèo trong vùng giặc chiếm, để gục đầu thương hận, mà
khóc cho quê hương vì đâu máu xương chất ngất, vì đâu mà kiếp sống của con
người, tới nay vẫn không bằng cây cỏ bên đường.
Tất cả chỉ còn là kỷ niệm trong nhớ, vào những ngày đầu đời, mẹ bỏ con trong
gánh, dầm mưa chạy loạn, giữa tiếng bom đạn, máy bay gầm thét, của Việt Minh và
Pháp. Tóm lại, chúng ta đều ra đời và trưởng thành trong tiếng súng, cùng với
bom đạn làm rách vỡ da thịt của quê hương. Rồi cũng vì người, vì tang bồng hồ
thỉ nam nhi trái, mà giốc cả tuổi trẻ, đời trai, vào cốc men đắng cay, uống cạn
hạnh phúc của chính mình.
Đất nước hai mươi năm chinh chiến, hai mươi năm dài hờn hận, đã dày vò người
lính miền Nam, trong mưa bom đạn xéo trùng hằng. Rốt cục những người nằm xuống,
những kẻ ra đi hay ở lại chịu cảnh ngục tù khổ sai của VC, ai nấy cũng đã trả
xong cái nợ “da ngựa bọc thây”, tủi nhìn từng trang lịch sử của nước nhà, bị
giặc thù bôi nhọ và khép kín.
Trưa 30-4-1975 Sàigòn thất thủ, miền Nam VN từ bên này cầu Hiền Lương, trên sông
Bến Hải, chạy ngang vĩ tuyến 17, tới mũi Cà Mâu, đã chính thức thuộc về lãnh thổ
Xã Hội Chủ Nghĩa đệ tam quốc tế cộng sản, có tổng đài ở tận Nga Sô. Cũng từ giờ
phút đó, khi mà chiếc mặt nạ hòa bình của người cộng sản đã cởi, để lộ những
khuôn mặt thật của các thây ma vô hồn, lạnh băng và hung hiểm, thì cũng là lúc,
đồng bào mới sực tỉnh và thương tiếc người lính VNCH. Nhưng than ôi tất cả đã
muộn rồi, họ đã ngã gục không phải tại chiến trường vì đạn pháo của VC, mà ngay
trên hè phố Huế, Đà Nẵng, Phan Thiết, Sàigòn… bởi chính những viên đạn ích kỷ,
hám danh, những miệng lưỡi ngòi bút, của chính phe mình.
Ai chẳng một lần về với đất? khác chăng là sớm hay muộn, vinh với nhục và sống
chết sao cho ý nghĩa của một kiếp người. Chỉ tội nhất là những người lính chưa
chết nhưng coi như đã chết vì thương tật chiến trận và những vết thương lòng. Họ
không chết mà chỉ bị thương nặng và tất cả đã gởi lại chiến trường một phần thịt
da của mẹ, ở Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan Thiết, Xuân Lộc… và ngay tại Sàigòn,
vào lúc mà cây cột đèn cũng muốn chạy, để khỏi bị VC nhổ đem đi bán. Họ ở lại
làm vật hy sinh cản xe tăng, hứng đại pháo của giặc thù, để kiếm thêm một chút
thời gian, một bầu trời an toàn, một dòng sông lặng sóng, giúp cho mọi người từ
dân tới lính, bình yên di tản ra nước ngoài, để tiếp tục sinh con đẻ cháu, ăn
học thành tài và thành người ngoại cuộc..
Nay thì từ quan tới lính, ai cũng kiếm cách đi khỏi quê nhà, bỏ lại những bóng
ma của quá khứ và những người thương phế binh sống sót, tủi hờn, đang lê lết
phận bèo khắp đầu đường xó chợ. Thời gian có thay đổi, lịch sử cũng sang trang
nhưng thân phận của người thương binh và gia đình của họ, chẳng có gì mới lạ,
vẫn lấy nước mắt làm mưa rửa mặt hằng ngày. Buổi trước, khi VC tràn vào, họ bị
bỏ lại ở những quân y viện, làng phế binh, không còn đại bàng, đồng đội và hậu
phương. Bây giờ thì dần hồi chết đói, chết nhục trong thiên đàng xã nghĩa, trước
sự xa hoa thừa mứa của VC, Việt Gian và Việt kiều muôn phương, vinh quy bái tổ,
áo gấm về làng, mà trong dòng người đổi đời này, không làm sao mà đếm hết, những
cấp chỉ huy và đồng đội cũ.
Có làm lính mới cảm thông cho kiếp lính nghiệt ngã đoạn trường. Có làm dân thời
ly loạn mới biết được thế nào là mạng sống của con người, giữa bom đạn vô tình,
héo úa còn thua cây cỏ. Có là người thương phế binh sau khi xuất viện, bỏ lại
một phần cơ thể, mới thật tội nghiệp cho tuổi trẻ bạc phước vô phần. Thê thiết
tận cùng là đời của người lính về chiều lại còn mang thương tật. Hỡi ôi những
mảnh đời cùng khốn ấy rồi sẽ đi về đâu, trong cảnh mưa gió phũ phàng của cuộc
đời? “ngày xưa, là lính vì đời chiến đấu là cầu đem người sang sông, hôm nay làm
ma cô đơn, gục chết bên vệ đường…”
1.Thân Phận Người Lính VNCH:
Đọc Congressional Record, một trong những tài liệu tuyệt mật của Tòa Bạch ốc vừa
được công bố, đã làm cho những lính già của VNCH phải cười ra nước mắt và thương
xót cho những đồng đội, đồng bào, suốt hai mươi năm qua, vì chiến đấu chống sự
xâm lăng của Bắc Việt, mà chết oan hay bị mang thương tật do đạn bom và bàn tay
VC gây ra. Những luật lệ kỳ quái như Lính Mỹ không được bắn VC, trừ phi chúng
tấn công trước. Không lực Mỹ không được dội bom vào xe của VC khi chúng ở cách
đường mòn Trường Sơn 200m. Phi cơ Mỹ không được tấn công phi cơ Mig nếu chúng
không gây hấn, không dội bom các phi cơ VC đậu yên tại phi trường. Cuối cùng,
nghiêm cấm quân Mỹ truy đuổi VC, khi chúng chạy sang Lào và Kampuchia.
Chính phủ Hoa Thịnh Đốn, chẳng những cấm Quân Lực Mỹ, Đồng Minh, VNCH không được
thẳng tay tiêu diệt kẻ thù, mà còn báo trước những bí mật quân sự, quốc phòng
cho VC biết trước, qua những lần oanh tạc tại miền Bắc, trên đường mòn HCM, hành
quân Lam Sơn 719… Đó là tất cả những sự kiện lịch sử có thật, được Thứ Trưởng QP
Mỹ Phil Golding, thời TT. Johnson, trả lời thắc mắc của hàng ngàn gia đình tử sĩ
Hoa Kỳ: “Chúng ta đang tham gia vào một cuộc chiến giới hạn, với những mục tiêu
hạn chế. Nói chung đây là một cuộc chiến vì chính trị, nên không thể tiêu diệt
VC được”.
Do sự phản ứng càng lúc càng đông của người Mỹ, trước cái gọi là “đánh không cần
thắng”, nên dân chúng đã xuống đường, đả đảo mà báo chí thời đó, gọi là do phản
chiến giựt dây. Thật sự, người Mỹ đã quá chán ngấy cái trò đem con bỏ chợ, đem
trứng cho ác, dai dẳng từ thời Kennedy, Johnson, kế đó là Nixon, nên đã giận dữ
đòi Hoa Thịnh Đốn “Hãy cút khỏi VN ngay, hãy chấm dứt cái trò chiến tranh nướng
thịt dai dẳng vô ích này.”
Tóm lại qua cuộc chiến VN, do đầu óc con buôn, người Mỹ đã đánh mất tất cả mọi ý
thức về trách nhiệm và danh dự, làm tiêu tốn hơn 150 tỷ mỹ kim tiền đóng thuế
của dân chúng, hại cho 55,000 chiến sĩ bị chết oan và hơn 300,000 quân nhân các
cấp bị thương tật. Trong khi đó, người lính VNCH, dù là một quân đội bất hạnh
nhất thế giới, theo báo cáo của MACV, Command History hay Dwight Owen, một cố
vấn Mỹ tại VN, thì đối với các quân nhân VNCH, Chỉ Có Chết, Tàn Phế Hay Đào Ngũ,
mới mong giải thoát được cái thân phận bọt bèo của người Lính chiến trong thời
loạn lạc.
Ngoài ra, tài liệu cũng có nói tới việc lính Nam VN đào ngũ, nhưng không phải họ
đầu hàng VC, mà trở về quê nhà gia nhập lực lượng ĐPQ+NQ, để được chiến đấu bên
cạnh vợ con, gia đình. Sau rốt, tính đến đầu năm 1975, QLVNCH đã có 231,508 tử
sĩ và 95,371 phế binh. Thương tủi nhất là những ngày tháng sau đó, cho tới khi
Nam VN sụp đổ vào ngày 30-4-1975, đã có hằng vạn dân lính vô tội gục ngã trên
chiến trường và khắp các nẻo đường chạy loạn. Nhiều tử sĩ cũng như thương binh
đã bỏ thây, bỏ xác tại chỗ, vì đồng đội không thể làm gì hơn giữa chốn loạn
quân. Chính Nhảy Dù từ ngày thành lập cho tới khi tan hàng, cũng đã phải nuốt
lệ, bỏ lại xác đồng đội, tại Mặt Trận Xuân Lộc tháng 4-1975, như Phạm Huấn đã
viết, khi được lệnh rút quân bất ngờ trong đêm, mịt mù lửa đạn.
Trước sự sụp đổ nhanh chóng và vô lý của Nam VN không phải tại chiến trường, mà
ngay ở các thành phố lớn Ba Lê, Hoa Thịnh Đón, New York, Luân Đôn, La Mã, Huế-Đà
Nẵng và Sàigòn, khiến cho nhiều trí thức ngoại quốc đã phẫn nộ và bày tỏ thái độ
khinh miệt, đối với một số người trong cũng như ngoài nước, một thời lợi dụng tự
do, dân chủ và nghề nghiệp, để bẻ cong ngòi bút, xuyên tạc sự thật, phỉ báng
đồng bào và quân đội Nam VN với mục đích đầu độc dư luận thế giới, giúp Bắc Việt
cưỡng chiếm VNCH. Đề tài quen thuộc, được một số báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương
viết lách, đem lên truyền thanh truyền hình, đó là người lính VNCH hèn nhát
không chịu chiến đấu nên bị mất tự do và bị người Mỹ khinh miệt.
Hai câu hỏi trên cách đây vài chục năm được bịa chuyện là có, nhưng bây giờ sự
thật đã xác nhận “Không”. Hoa Kỳ khi tới chiến đấu tại Nam VN, có đủ phương tiện
tinh thần cũng như vật chất, vẫn nhiều lần bị thương vong, bại nhục, vẫn không
thiếu những binh sĩ đào ngũ, bỏ chạy khi trận địa hỗn loạn, vẫn có tham nhũng và
chính cựu TT. Bill Clinton, vì hèn nhát nên đã trốn quân dịch pháp định. QLVNCH
chỉ mới thành lập, được coi là một quân đội nghèo nhất trên thế giới, lại bị
chiến đấu trong một cuộc chiến không có giới hạn chiến trường, hậu phương, bạn
địch.
Thế nhưng những người lính nghèo đó, mà lương năm cộng với tiền tử tuất, phế
tật, không bằng một cuốc rượu của những ca ve, me Mỹ, vậy mà họ vẫn một đời đem
máu đào xương trắng, phụng sự chính nghĩa, bảo vệ màu cờ, sắc áo và từng sinh
mạng cũng như tất đất của quê hương. QLVNCH là sinh mạng của muôn người, nên khi
thiếu vắng hay không còn họ, mạng người Nam VN chỉ còn là lá rụng, đã gục ngã
tại Mậu Thân Huế-Sàigòn, trên các đại lộ kinh hoàng quốc lộ 1, Kontum, An Lộc
mùa hè đổ máu và sau rốt là cùng nhau chết tập thể vào ngày 30-4-1975. Như sử
gia Edward S. Creasy viết trong tác phẩm nổi tiếng “Fifteen Decisive Battle Of
The World” năm 1851 “Tầm quan trọng của một cuộc chiến, là những gì ta có hôm
nay, đối với người thắng cũng như kẻ bai”. Những gì đã xảy ra tại Nam VN, sau 35
năm bị cộng sản cưỡng chiếm, đã đủ trả lời về tấn thảm kịch của VN, mà lần nữa
Robert S. McNamara, cựu bộ trưởng QP. Thời TT Kenedy, đã giải thích một chiều,
trong hồi ký của mình “In Retrospect-The Tragedy and Lesson of VN”.
Nhưng không phải tất cả người Mỹ đều mù quáng và tin tưởng vào truyền thông báo
chí lúc đó. Chính những giờ phút cuối cùng, nhìn cảnh đời bi thảm của phận lính
bọt bèo Nam VN trên màn ảnh, tờ The New York Times Service, đã thay thế người
nhược tiểu, giận dữ tố cáo chính quyền Mỹ là hèn nhát, bỏ đồng minh tháo chạy về
nước trước sự tấn công của VC. Họ cũng nêu đích danh Henry Kissinger là kẻ bán
đứng VNCH cho VC khi bắt ép họ ký vào bản hiệp ước giả mạo 1973, sau đó tàn nhẫn
cúp viện trợ, phủi tay đứng nhìn miền nam sụp đổ.
Không có gì tồn tại với thời gian trừ chân lý. Vì vậy những câu chuyện hề của
Henry Winston chủ tịch đảng cộng sản Mỹ, đem diễn tại Hà Nội vào tháng 5-1975,
hay lời tuyên bố vung vít của Nguyễn Hữu Thọ, chủ tích bù nhìn của Mặt Trận Ma
giải phóng tại Mạc Tư Khoa, ngay khi Sàigòn thất thủ: “cám ơn báo chí và ký giả
Tây Phương, đã góp phần lớn cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này đáng kể là
người Mỹ”.
Đây là tất cả sự thật, vừa được một cựu chiến binh Không Quân Hoa Kỳ là Harry H.
Noyes, thay mặt những người lính VNCH, qua tác phẩm “Heroic Allies” nói lên vinh
quang và sự hãnh diện của một quân lực, từ lâu đã bị bọn trí thức vô liêm sỉ,
tước đoạt một cách hèn hạ, bất nhơn và vô nhân đạo. Sự tuyên truyền lố lăng và
cuồng ngạo của Hà Nội cùng những mặt mo bưng bợ, làm cho thiên hạ năm châu chán
ghét, sau khi cái thây ma VNCH chỉ còn trơ lại bộ xương gầy đét, không còn gì để
cho Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Chân Tín và một số quạ đen, diều
hâu, bu tới rỉa rói như lúc chợ còn đông khứa.
Trong tài liệu đặc biệt “How Media Bias Distorts Our View of the World” của ký
giả Allan Brownnfiels, nói rằng vì hầu hết giới truyền thông Tây Phương, quá mù
quáng, ca tụng một chiều về Mao Trạch Đông và Fidel Castro, trong lúc thẳng tay
sỉ nhục bôi nhọ Tưởng Giới Thạch và chính phủ CuBa lúc đó, tuy vô tình nhưng đã
làm cho cộng sản tại hai nước này chiến thắng mau lẹ. Bài học của lịch sử sau đó
lại tái diễn ở Nam VN. Lần này do chính những thành phần được ưu tiên trạng
trọng trong xã hội lúc đó, là những công tử tiểu thư đài các của giới địa chủ,
địa hào, thương gia, chủ vựa nước mắm, nhờ cha mẹ tổ tiên theo thực dân Pháp bóc
lột đồng bào, nên có tiền, có thế, cho con trai, con gái qua Pháp, Mỹ du học
thành luật sư, bác sĩ, giáo sư, những thành phần mà Hồ Chí Minh và đảng VC ở
miền Bắc, chém giết và khinh bỉ tận tuyệt, sau khi được làm chủ nửa miền đất
nước vào năm 1954.
Nhờ cái mặt nạ trí thức và sự tự do quá trớn của Nam VN, những thành phần ăn
chén đá bát này, luôn bẻ cong ngòi bút, làm cho thế giới tự do lầm lạc, nghĩ
rằng giặc Cộng tại Nam VN là những người bình thường, yêu nước, nên nổi dậy
chống lại sự độc tài tham nhũng của chế độ. Tóm lại nhờ những trí thức này, mà
VC nằm vùng sau ngày tập kết 1954, VC chính thống từ Miền Bắc xâm nhập, kể cả
Tàu Cộng, Liên Xô, Cu Ba, Đông Âu… trong bộ đội Hà Nội đang chiến đấu tại Nam
VN, đều không có dính líu tới Hồ và cộng sản đệ tam quốc tế. Sự độc ác trên, nhờ
tuyên truyền ngay ở miền Nam và các mạng lưới quốc tế, khiến cho cuộc chiến
chống xâm lăng cộng sản, của người Việt quốc gia Nam VN, mất đi cái ý nghĩa
chính thống, làm cho Hoa Kỳ cũng gặp nhiều khó khăn khi sang chiến đấu bảo vệ
tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á. Rốt cục, cả Mỹ lẫn Việt đều đại bại trước mặt
trận thông tin ca ngợi VC, của báo chí, truyền thông ngoại quốc và ngay trong
nước.
Từ năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân dồn dập vào Nam VN, cũng là thời kỳ lửa máu
ở hậu phương. Đây cũng là thời kỳ ăn nên làm ra, của những thông tín viên, ký
giả ngoại quốc, qua những bài tường thuật, có kèm hình ảnh, không phải để phổ
biến những sự thật, mà chỉ để tuyên truyền một chiều, nhằm bôi nhọ những quân
đội, đang trực diện với cộng sản Bắc Việt, trên chiến trường Nam VN. Có thể nói
bài phóng sự chiến trường đầu tiên, của thông tín viên đài CBS tên Morley Safer,
viết về cuộc hành quân của một đơn vị TQLC Mỹ, tại một làng xôi đậu, đã trở
thành những mẫu thông tin “ăn khách”, theo đơn đặt hàng của thị trường Mỹ và Tây
Phương lúc đó. Cũng nhờ báo chí phản tuyên truyền về cuộc chiến Tết Mậu Thân
1968 “ VC chết thảm khắp nơi, đã thành chiến thắng, chiếm được ngay cả Tòa Đại
Sứ Mỹ ở Sàigòn “. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là báo chí Tây Phương, trong
suốt cuộc chiến Nam VN, đã không hề có một chữ tường thuật những hành vi khủng
bố, giết người tàn bạo của VC trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, năm 1972 trên
Đại Lộ Kinh Hoàng tại KomTum, Bình Đinh, An Lộc, Quảng Trị và những ngày di tản
máu lửa hận hờn.
Người lính VNCH vừa đánh giặc phương Bắc, vừa chống đỡ búa rìu truyền thông báo
chí trong nước cũng như phong trào phản chiến tại Mỹ và tây phương, được liên
kết bởi trí thức, sách báo và tuyên truyền. Đó cũng là lý do đưa đến sự sụp đổ
tất yếu của một dân tộc hiền hòa, lễ nghĩa nhưng bất hạnh vì mang thân phận
nhược tiểu
2. Thương Quá Người Phế Binh VNCH:
Tất cả hình như chỉ còn có kỷ niệm sau cuộc đổi đời. Là định mệnh mà chúng ta,
những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu theo vòng đời nổi trôi của dòng sông
lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận.
Mất nước nhà tan, nguời lính sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu sông
cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù ngục chịu cảnh
nhục hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đã đi hết rồi, chỉ còn ở đây là những thương phế
binh xa cũ, những hồn ma cô quạnh, sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết
thương đời không hề hối hận:
“Di tản khó, sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên
Người chết mấy ngày không lấy xác
Thây sình mặt nát, lạch mương tanh…”
(Tô Thuỳ Yên)
Ta thán phục, ta hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang sử cũ. Sẽ vui cười
hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần giết đuổi giặc Tống, Mông, Minh,
Thanh..tận ải Chí Lăng, trên sông Bạch Đằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo.
Không biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành xử thế nào mà muôn
người như một, khiến cho người trong nước, già trẻ lớn bé, đều nguyện một lòng
giết giặc cứu nước tại Hội Nghị Diên Hồng. Sau này mới vỡ lẽ, thì ra đó là tinh
thần trách nhiệm, cũng như bổn phân của kẻ sĩ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là
đức tính cao quí của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít
học.
“Tôi không là tôi nữa,
Từ khi được xuất ngũ
Có quạ đen đậu trên đầu
Có bao nhiêu đợi chờ đau khổ...”
Thanh niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết,
nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có
làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh, sau khi được xuât
ngũ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả, ngoài người mẹ
già từ quê xa, đang đợi con trở về. Thê thiết quá cũng như đau đớn tột cùng,
kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy, có khi còn đau đớn trăm chiều. Ai đã
tùng thấy chưa, cảnh vợ lính hay người yêu, chỉ một lần vào thăm người thân nơi
quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá sấu, vô tình còn
vương vãi đó đây. Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường thiên lý, tình cờ
hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất trẻ, những người mù, què, mặt mày in
đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi người. Họ là
lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang
thương tật không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu:
Theo sử liệu, ta biết Nha Cựu Chiến Binh và Nạn Nhân Chiến Cuộc, trưc thuộc Bộ
Quốc Phòng. Đầu tiên Nha này là một Bộ được thành lập vào tháng 8-1952, có một
An Dưỡng Đường dành cho Thương Phế Binh. Sau đó, bộ này bị hủy bỏ, tất cả các
vấn đề liên quan tới cựu chiến binh, đều giao cho Bộ Y Tế, với một Nha riêng gọi
là Nha Tổng Thư Ký, Cưu Chiến Sĩ và Phế Binh đãm trách.
Thời VNCH, qua một Đại Hội Cựu Chiến Sĩ toàn quốc tại Toà Đô Sảnh Sàigòn. Ngày
29-5-1955, Nha Tổng Giám Đốc CCB và NNCC được thành lập, trụ sở ở đường Đoàn Thị
Điểm. Sau Tết Mậu Thân 1968, Nha được cải thành Bộ, gồm các Nha Sở Trung Ương và
các Ty trực thuộc.
Năm 1969, một biến cố lớn đã xảy ra tai thị xã Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đó là
vụ Y Sĩ Đại Uý Hà Thúc Nhơn, trưởng trại 12 tai, mắt, mũi, họng, thuộc Quân Y
Viện Nguyễn Huệ. Vì dám tố cáo Chỉ Huy Trưởng QYV là Thiếu Tá Phùng Quốc Anh,
với sĩ quan hành chánh Đặng Mai, toa rập tham nhũng, ăn xén tiền ẩm thực của
thương bệnh binh, cũng như mờ ám trong các vụ cứu xét, phân loại trợ cấp, miễn
dịch. Đại Uý Nhơn đã cầm đầu các bệnh binh nổi loạn, nên bị Tỉnh trưởng Khánh
Hòa lúc đó là Đại Tá Lý Bá Phẩm, nguyên Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 Biệt
Lập, ra lệnh cho ĐPQ bắn trọng thương và đã chết khi chở vào cấp cứu tại Cam
Ranh.
Ngày đưa tang người xấu số, cũng là thời điểm Phế Binh Khánh Hòa đứng dậy đòi
quyền sống. Taị Sàigòn, Trung Úy mù BĐQ Đỗ văn Lai cùng một số phế binh nặng,
đang dưỡng thương tại Trung Tâm Chỉnh Hình đường Bà Huyện Thanh Quan, cũng biểu
tình, cắm dùi khắp Đô Thành, đòi Chính Phủ phải cứu xét lại quyền lợi của họ,
trước vật giá leo thang đắc đỏ, do sự hiện diện của Mỹ và Đồng Minh, vung đô la
xanh đỏ qua cửa sổ như khói thuốc. Phong trào tranh đấu bùng nổ khắp nước, làm
cho chính quyền trung ương cũng như tại các tỉnh bối rối, vì không thể dùng bạo
lực để chèn ép hay khóa miệng, bởi phế binh cũng là lính, nên ai nỡ xuống tay.
Rồi Tổng Hội Thương Phế Binh ra đời tại Sàigòn, bầu PB Nguyễn Đinh làm Hội
Trưởng, PB Nguyễn Bính Thịnh, tức nhà văn An Khê, làm phó và PB Đinh Trung Thu,
tổng thư ký. Ngoài ra còn có một Hôi Ái Hữu Thương Phế Binh, do cựu Thiếu Tá
Nguyễn Văn Hàng thành lập.
Thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) bắt đầu năm 1969 trở về sau, quyền lợi của Phế
binh, cô nhi quả phụ càng ngay càng được cải tổ, chăm sóc và dễ thở hơn trước.
Nạn chèn ép, dìm sổ trợ cấp để làm tiền cũng chấm dứt. Từ năm 1972, chính phủ
cho thành lập Ty Cựu Chiến Binh tại các Tỉnh, có quyền hạn rất rộng rãi, ngoại
trừ sổ trợ cấp đầu tiên được ký cấp từ Bộ. Cũng từ đó, người cô nhi, quả phụ và
thương phế VNCH, được sống an nhàn hơn trước, với các quyền lợi thiết thực,
tương xứng, từ trợ cấp, xin việc làm, y tế, cho tới các kỳ thi, tất cả đều ưu
tiên cho họ.
Rồi thì hằng loạt Làng Phế binh, lần lượt ra đời tại quận cũng như thị xã. Riêng
những phế binh đã có nhà, không muốn vào Làng, được trợ cấp một ngân khoản
60,000 đồng. Tất cả các làng trên, đều bị VC cướp giựt sau ngày 30-4-1975.
Làm người bình thường, sống trong thời loạn, đã phải khốn khổ vì miếng cơm manh
áo, huống chi phận lính nghèo, lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn bị trí thức
nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ.
“Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà, thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về…”
“Mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo người xưa, ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta, đôi
mắt đã lòa vì quá đợi chờ…”
(Phạm Duy).
Nhưng chiến tranh chứa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành
tàn phế, vô dụng, lê lết đời tàn xuân héo, lần mò trở về làng xưa, với những kẻ
thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.
Ai có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc xe
lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống? Có thương không những
người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán vé
số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nữa, còn trăm ngàn thảm kịch của tuổi
thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn
bởi những hậu chứng, sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi
biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng tấm mưa. Kiếp sống phận
bèo của người phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện
bình thường.
Hai mươi năm chinh chiến, dù có gọi bằng một thứ danh từ gì chăng nữa, thì xác
của nam nữ thanh niên hai miền đất nước, cũng đã chất cao như núi, máu chảy
thành sông. Rốt cục chỉ có cái vỏ độc lập, hòa bình, tự do, thống nhất. Người cả
nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hãm tứ phiá, bởi cổ được mang nhiều thứ
gông, cả cộng sản, lẫn tư bản và đảng cầm quyền.
Nhưng thê thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ cũ
còn, được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi, thế nhưng họ vẫn sống bèo bọt, cực
nghèo. 30-4-1975, VC vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện trả thù. Lính
sống thì đi tù, lính chết thì cầy mộ, còn lính què đui tàn phế, thì bị xua đuổi
ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và ngay cả ngôi nhà của mình.
19-4-1975 tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết. 30-4-1975 tại Tổng Y Viện
Cộng Hòa-Sàigòn. Thảm họa gì đã đến với các thương bệnh binh còn đang điều trị,
khi giặc về? Có ai cầm được nước mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng
đoàn thương binh, nối gót đắt dìu ra cổng. Người sáng dắt kẻ mù, kẻ bị thương
nhẹ cõng người trọng bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi với nước mắt đoanh
tròng của những nạn nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng đồng đội và cũng hết
hậu phương. Một số chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế
vĩnh viễn, vì vết thương không được tiếp tục điều trị. Đời thê thảm quá, cũng
may lúc đó quanh họ, còn có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngã ba Chú Iá, Gò
Vấp, những người xích lô ba gác, kẻ cho tiền, người giúp công, đưa hết những
bệnh nhân xa xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp lính bèo.
Cuộc đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay. Ba
mươi lăm năm rồi ta còn sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa trên đất
người, đã là điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những
người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai mất. Nhưng chắc chắn một điều,
dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau cũng đâu có khác gì bóng ma
trơi, những mảng đời nghèo hèn tăm tối. Đâu có ai muốn nhắc tới những thân phận
hẩm hiu trong vòng đời tục lụy, kể cả những cấp chỉ huy cũ, hiện đổi đời giàu
sang, mồm to miệng thét ở hải ngoại.
– Xin hãy thương lấy họ, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngã.
– Phế binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại.
– Hãy rớt một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm
luân.
– Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hối.
– Hãy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ, trong căn nhà VN to lớn, đã được
các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp nẻo đường viễn xứ, để họ an tâm chờ
đợi luân hồi và một vòng hoa tặng người chiến sĩ ca khúc khải hoàn, mà chắc chắn
phải có trong thời gian gần.
Ngày xưa người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi chồng
ngoài quan tái, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng phùng, kết lại mối
duyên xưa:
“Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
Xin vì chàng giũ lớp phong sương
Vì chàng tay chuốc chén vàng
Vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng
Liên ẩm, đối ẩm, đòi phen
Cùng chàng lại kết, mối duyên đến già…”
(Chinh Phụ Ngâm)
Nhưng người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, vì khi quê hương vừa
ngưng tiếng súng, lập tức từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người bại trận, lớp
lớp vào tù. Lính chết đã rục tử thi vẫn bị dầy mồ, lính bị thương tàn phế bị xua
đuổi ra khỏi cuộc sống. Thử hỏi trên thế gian này, có kiếp người nào, đáng
thương hơn người lính VNCH?
“Dấu binh lửa nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương”
(Chinh Phụ Ngâm)
Cuộc đời thanh niên thời loạn ly, rốt cục chỉ còn lại nỗi buồn thiên cổ, xin hãy
nâng ly rượu sầu lên môi mà nhớ. Nghiêng mình, cúi đầu cảm tạ những vị ân nhân,
đã và đang hết lòng cưu mang, giúp đỡ tận tình “Thương Phế Binh, gia đình kể cả
cô nhị quả phụ VNCH”, hiện đang sống kiếp trầm luân rách đói, trong địa ngục VN.
Xóm Cồn Ha Uy Di
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.